Cần biết thêm: Tỉnh Quảng Tây. Phần 1
13/9/2020

Tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc
 

Tỉnh thứ hai Trung Quốc , sau Vân Nam, có biên giới chung với Việt Nam ,cần biết rõ hơn:

Tỉnh Quảng Tây hay  Vùng Tự Trị Tộc Dân Tráng

         G S Tôn Thất Trình

 


 

                      Đôi chút lịch sử Quảng Tây 

( phần lớn chiếu theo Britannica .com , ngọai trừ phần liên quan đến sử ký Việt Nam)

           

Từ thuở ban đầu đến khỏang 1900 .

      Quảng Tây – Guangxi được biết thời Tam Quốc  ( 475- 221 trước CN-BC)   là đất  Bách Việt – Baiyue   các tộc dân địa phương  Miền Nam Trung Quốc thuộc  triều đại Đông Chu, Châu – Dong Zhou ( 770 – 256 trước CN )  . Một nhóm phụ  nhỏ của tộc dân Thái – Tai  tên là Tráng – Zhuang   sinh sống ở vùng này  và có nền kinh tế   căn cứ trên  trồng lúa  nước -wet , irrigated rice cultivation.    Miền Đông Quảng Tây    bị  dân Hán ( Tàu miền Bắc )   chiếm cứ  vào khỏang 214 trước CN  vào triều đại Tần – Qin ( 221- 207 trước CN )    Kênh Linh – Ling Canal được đào  ra để nối   các sông Tường – Xiang và sông Quý – Gui  thành một đường sông Bắc Nam Trung Quốc .   Một quốc gia độc lập  tên là Nam Việt - Nan Yue,  Tướng Triệu Đà – Zhao Tuo   thiết lập, với sự trợ giúp của dân Tráng ,   vào cuối thời Tần  và tồn tại mãi cho đến   khi bị trào Hán (   206 trước CN – 220 sau CN )   thôn tính vào   các năm 112 – 111  trước Công Nguyên . Các nhà cai trị Hán  giảm bớt  quyền hành  của dân Tráng   bằng cách  cũng cố chiếm đóng  các vùng như các thị trấn  Quế ( Qúy )Lâm – Guilin ,  Vũ Châu - Wuzhou ,   Hửu Lâm- Yulin . Nhắc lại là Triệu Đà   đánh bại vua An Dương ( Vương )   nước  Âu Lạc – Việt Nam ( chuyện cổ tích nỏ thần  lãng mạn Mỵ Châu – Trọng Thủy)  năm 179 trước CN   và thôn tính từ 179  đến  111  trước CN .      

 
      Năm  42 sau CN ,   tướng Mã Viện – Ma Yuan   đánh dẹp khởi nghĩa Hai Bà Trưng .    Mã Viện  tổ chức lại  chánh quyền Quảng Tây , cải thiện công trình công cọng,  đào nhiều kênh ,  và khai khẩn đất hoang  tăng gia  sản xuất .  Đền thờ Mã Viện  vẫn còn nhìn thấy nhiều noi ở Quảng Tây . Trái lại,  ở Việt Nam ,   ngay cả trụ đồng Đông Hán Mã Viện dựng lên  với  dòng chữ “ Đồng Trụ Chiết , Giao Chỉ Diệt . Mất Đồng Trụ  thì  Giao Chỉ tên Việt Nam thời bấy giờ  bị diệt tan” củng không còn nữa  vào cuối  thập niên thứ 19 ( “ …Cột đồng Đông Hán tìm đâu thấy, chỉ thấy Tây Hồ bóng nước gương …, thơ của Hòang Cao Khải  ).  Từ cuối thời Hán đến bắt đầu đời Đường- Tang dynasty( 618- 907 )    các tộc dân  Mien ( tên gọi ở Tàu là  Yao hay Mán  theo tiếng Việt )  từ Giang Tây – Jiangxi  và Hồ Nam - Hunan   cọng thêm vào  những căng thẳng tộc dân  của Quảng Tây. Khác với tộc dân Tráng, tộc dân Yao kháng cự lại văn hóa Hán - Tàu .  Vùng núi đồi  Qúy Bình- Guiping ,   Tân Tú- Jinxiu  Tú Nhân ?- Xiuren  ở trung tâm Đông Quảng Tây    ( vùng  Đại Yao Sơn- Dayaoshan )  nơi dân Yao  định cư   trở  thành một  trung tâm bất ổn thường xuyên.       Vào các triều đại kế tiếp ,  lại có thêm nhiều cuộc di cư tộc dân Yao từ  các tỉnh  Hồ Nam   Quý Châu – Guizhou  .  
 
Hai Bà Trưng

 
      Dưới triều đại Đường,  Quảng Tây trở thành   một phần  của một tỉnh lớn  có tên là Lăng Nam – Lingnan .   Nhà học giả lừng danh là Liễu  Dũng  Nguyên- Liu Zongyuan    chủ tỉnh ở Liễu Châu -  Liuzhou.  Tuy nhiên, bức bội về  dân Hán Tàu nới rộng,   dân Tráng   chuyễn qua hổ trợ  vuơng quốc Thái – Tai  Nam Châu - Nanzhao  ở Vân Nam.  Rồi   Quảng Tây chia hai :   một vùng tổ tiên  là Tráng   phía Tây  từ  Quế Lâm – Guilin  đến Nam Ninh – Nanning và một vùng tổ tiên là Hán- Tàu ở  phía Đông . Sau khi  nhà Đường mất , một quốc gia Tàu  độc lập  có tên là  Nam Hán – Nan Han  thành lập,  nhưng sau đó  bị trìều đại Tống -  Song dynasty ( 960 – 1279 )  hủy bỏ năm 971 .   Sử Việt ghi là  tháng 11 năm 938 , Ngô Quyền đại phá  quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng , Lê Hòan   thắng quân Tống xâm lăng tháng 3  năm 981 lần thứ nhất và tướng Lý Thường Kiệt   nhà Lý  ( 1075 -  1077 )  kháng chiến chống quân xâm lược  Tống lần thứ hai . Lý Thường Kiệt, tên thật là Ngô Tuấn  người làng  An Xá huyện Quảng Đức – Gia lâm Hà Nội là tướng Việt duy nhất  đã đánh Tống ở lảnh thổ Tàu  , chủ động đưa  quân Việt sang đánh  các châu Ung, châu Khâm và châu Liêm : đạo quân Tôn Đản phó tuớng của ông hạ thành châu Ung là Nam Ninh- Nanning  tỉnh Quảng Tây và đạo quân ông chỉ huy trực tiếp  theo đường biển đổ bộ vào châu Khâm , châu Liêm tỉnh  Quảng Đông , phá tan âm mưu địch,   rồi rút về nước  chuẩn bị   sẳn sàng đối phó   cuộc tấn công mới của chúng vào cuối năm 1077 . Lý Thường  Kiệt chiến thắng   ở Nam Bắc sông Như Nguyệt ( sông Cầu Hà Bắc- Việt Nam ngày nay ) , phá tan 10 vạn quân  tác chiến và 20 vạn quân  hổ trợ Tống.                              

 
   Tống cai trị Quảng Tây bằng cách luân phiên   dùng vỏ lực  và hòa  giải , một chánh sách   không  thỏa mãn  nổi  các nguyện vọng  tốc dân Tráng cũng như   không chấm dứt được   chiến cuộc dữ dội dã man  của tộc dân Yao  chống lại Tàu .  Năm 1052   lảnh tụ Tráng Nồng( –Nùng) Chí Cao  - Nong Zhigao  lảnh đạo   cuộc nổi lọan   và thiết lập   một vương quốc độc lập  ở miền  Tây Nam Quảng Tây .   Nổi lọan bị dẹp tan sau một năm , nhưng  miền này   tiếp tục sôi sục bất mãn .   Triều đại Nguyên ( 1206- 1368 ) thiết lập cai trị trực tiếp ,   và lập ra tỉnh Quảng Tây , nhưng liên hệ giữa   chánh quyền và dân gian cũng không cải thiện gì cả.    Liên hệ  các tộc dân càng phức tạp thêm   khi một tộc dân  địa phương khác là Miêu , Mèo – Miao   ( tự xưng là dân Hmong ) , di   cư đến từ Quý Châu - Guizhou   và nhiều dân Tráng   cũng đến từ Giang Tây – JiangxiHồ Nam – Hunan. Nhà Minh ( 1368-1644 )  đối  diện với tình thế phức tạp ,  đề xướng tích cực  thuộc địa quân sự hóa,   trong cố gắng  phá ngầm   đời sống  bộ lạc .  Minh trào cai trị   dân thiểu số  qua hệ thống    Tử tích – tusi ( các lảnh tụ bộ lạc  phục vụ như thể là   nhân viên  của chánh phủ Tàu ).  Điều này đưa tới  những trận chiến đẩm máu  ơ lịch sử Quảng Tây  , đặc biệt  là chiến cuộc giữa tộc dân Yao   Hẻm Song Mây Khổng lồ - Giant Rattan Gorge  gần Qúy Bình - Guiping , năm 1467 .  Nhà Thanh - Qing ( Mãn Châu ) ( 1644 – 1911/12 )   đặc các tộc dân thiểu số   dưới  quyền cai trị  của  hòang đế  năm 1726 , nhưng cũng không đem lại hòa bình . Tiếp theo  cuộc nổi lọan của tộc dân Yao  năm 1831,  là cuộc Nổi Loạn Thái Bình Thiên quốc – Taiping Rebellion  năm 1850 , cũng gần Qúy Bình   dưới quyền lảnh đạo tộc dân thiểu số  và kéo dài mãi  cho đến giữa thập niên 1860. Trong lúc đó,  nhiều  sự cố, kể cả việc   giết chết một nhà truyền giáo Pháp ở miền Tây Quảng Tây , đem đến liên hiệp  Anh Pháp năm  1857,  chống lại Trung Quốc  tên gọi  là Chiến tranh Nha phiến Thứ hai -Second Opium War( hay Arrow ). Đánh nhau  ngắn ngủi   kết thúc bằng  những hiệp ước nhục nhã Thiên Tân – Tianjin năm 1858 . Rồi đến  cuộc Chiến tranh Trung Pháp – SinoFrench War  từ năm  1883 đến năm 1885. Thế ưu việt Pháp  ở Việt Nam  đã phô bày   Quảng Tây  cho ngọai quốc xâm lấn.   Long Châu - Longzhou   mở cửa cho  thương mãi ngọai quốc năm 1889 , Vũ Châu –Wuzhou năm  1897  và Nam Ninh năm 1907,  trong khi vào năm 1898 Pháp  đạt được  một vùng ảnh hưởng  riêng ,  gồm luôn Quảng Tây .


 

     Quảng Tây kể từ 1900   

    Cùng với tỉnh Quảng Đông   kế cận , những năm đầu  của thế kỷ thứ 20, Quảng Tây    trở thành  căn cứ của Cách Mạng Quốc Dân Đảng  do Tôn Dật Tiên- Sun Yat Sen  ( hay  Tôn Trung Sơn  - SunZhongshan ) lảnh đạo.  Giữa 1906 ,và 1916 , các lảnh tụ Quảng Tây  hổ trợ thiết lập  một Cộng Hòa, và trong thập niên kế tiếp   họ đóng một vài tyro  tích cực   trong việc tái tổ chức  Quốc Dân Đảng Tàu . Theo sau bừng dậy của  Tưởng Giới Thạch - Chiang Kai –shek ( Jiang Jieshi ) nắm quyền  năm 1927,  các lảnh tụ Quảng Tây là     Trung  Nhân – LiZongren    Cát Thiểm – Li jishen  làm thành nhóm Quảng Tây chống đối Tưởng .   Nhóm  làm  nhiều   cận đại hóa Quảng Tây  và duy trì một  thái độ   coi thường chánh phủ Trung ương .  
  . Dù rằng Tưởng  đáh tan chống đối này năm 1929,  Tưởng không đủ khả năng  để chấm dứt  tình trạng bán độc lập của vùng này . Phần tộc dân Tráng  lại thành lập một  lọat  các sô viết cách mạng  ( là các đơn vị   tổ chức cộng sản được bầu lên )  giữa các năm  1927 và 1931 , gíúp  các lảnh tụ mới cọng sản  nổi lên.  Trong thế Chiến Thứ Hai , Quảng Tây là một mục tiêu chánh của Nhật tấn công . Nhật xâm chiếm  Nam Quảng Tây,  năm 1939  và chiếm cứ Nam Ninh   và Long Châu .  Trong thời gian này ,  Quý Lâm - Guilin  trở thành   căn cứ chánh   cho các lực lượng Tàu và Đồng Minh , cũng như là gia thất   của báo chí yêu nước ,Tin tức Hằng ngày   Cứu Quốc – National Salvation Daily News .    Năm 1944,  Nhật  quyết định tiến vào Quảng Tây dù rằng  Nhật ngắn ngủi chiếm   Guilin , Liu zhou  và Wuizhou , nhưng không đủ khả năng chiếm  giữ vị trí .  Các lực lượng   Tàu sau đó  chiếm lại các thị trấn , thành phố lớn .  Ở Nội Chiến Quốc Cọng   theo sau Thế Chiến  thứ Hai,  các lực lượng cọng sản chiếm Guilin tháng 11 năm 1949  và Quảng Tây trở thành  một tỉnh Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc . Vùng tự trị được thiết lập năm 1958 trong  một cố gắng thỏa mãn nguyên vọng dân gian địa phương.
 

Phần I :   Tổng quát

 

      Vị trí 

 

Quảng Đông, Quảng Tây và Việt Nam 
 
     Chính thức  kể từ năm 1958 là Vùng  Tự  trị Tráng Quảng Tây – Guangxi Zhuang Autonomous  Region.   Diện tích  là 236 700 km2 ( 91 400 dặm Anh vuông ) , đứng hàng thứ 9  về  diện tích các tỉnh – vùng Trung Quốc, nghĩa là nhỏ hơn Việt Nam.  Tọa độ là 20054’- m26024’ Vĩ tuyến Bắc và 104026’ – 112004’ Kinh tuyến Đông .   Bắc  giáp tỉnh Quý ( Quế ) Châu -  Guizhou,  Đông Bắc  giáp  tỉnh Hồ Nam – Hunan,    Tây Nam  giáp tỉnh Quảng Đông  , và Tây  giáp tỉnh Vân Nam  .Biên giới  tiếp giáp Việt Nam  là ở Tây Nam  tỉnh và Vịnh Bắc Bộ về phía Nam. Năm  1952 , một mảnh bờ biển nhỏ  Quảng Đông được đưa cho  Quảng Tây là một vùng đất liền lục địa  không bờ biển  là Bắc Hải-  Beihai, Quế Châu và  Khâm Châu – Qinzhou ;. Vùng bờ biển này  trả lại cho Quảng Đông năm 1955,  rồi lại  qui hòan Quảng Tây năm 1965.     
 

     Dân số , thành phần các tộc dân   

 

     Thủ phủ là Nam Ninh – Nanning, dân số năm 2010 là   6 6661 600  người . Lớn hơn  thành phố  Quế Lâm- Guilin  nguyên là thủ phủ cũ  tỉnh  và là trung tâm văn hóa  , chánh trị  lịch sử Quảng Tây;   nay dân số chỉ đứng hàng  thứ ba  của Vùng tự trị, sau cả thành phố đông dân thứ   hai là  Du ( Hửu ? ) Châu -  Yu zhou .   Năm  2010, dân số tòan tỉnh    46 026  000 ( theo Britannica . com ) . Năm  2012 là 46 800 000 người , phân nữa tổng dân số Việt Nam .  

 
     Nay tộc dân đông nhất Vùng là  Hán ( Hoa ) –Tàu . Nhóm Hán  chánh Quảng Tây nói tiếng Quan Thọai-Mandarin  Tây Nam Tàu và các  lọai tiếng  Tàu  Việt- Chinese Yue varieties . Nhóm Tráng – Zhuang   là nhóm đông dân thứ hai ở  Quảng Tây  , có đến 14 triệu người  .  90% tộc dân Tráng   sinh sống ở Quảng Tây  đặc biệt   chiếm 2/3 dân số  ở các vùng miền  Trung và miền Tây . Và tộc dân Hán   chiếm 1/3 còn lại    .   Hai ảnh hưởng ngôn ngữ Tàu  khác  biệt nhau là Quan Thọai Tây Nam , nói nhiều ở quận huyện  Đông Bắc là Quý Lâm -Guilin   và tiếng Quảng Đông – Cantonese    ở phần Quảng Tây còn  lại.  Ngòai ra còn một số  đáng kể dân Dong –Đông ?  và dân Mèo – Miêu – Miao , và một số nhỏ hơn  làcác tộc dân Yao , Hui , Yi ( Lô lô ), Shui    Gin ( tộc dân Việt Nam – Kinh ) . Như đã biết  , tộc dân Tráng  một tộc dân Thái – Tai  đã sinh sống ở  Quảng Tây từ  2500 năm rồi  . Dân Tráng  sống ở đồng bằng    thung lũng các sông   của đồi núi phía Tây  . Họ  trồng lúa nước   và thực hiện  một nền kinh tế   rất dễ   nhập vào dân Hoa – Hán Tàu  .    Họ thường có tên là “dân sống ở nước -  water dwellers  vì các nơi  họ định cư là gần  nước, xây dựng  nhà sàn trên cột , cọc .  Dân Tráng đã sống chung cùng dân Hán từ 2000 năm nay .  Họ thu nhận văn hóa  Tàu , nói luôn cả hai  thứ tiếng  , ngôn ngữ Tráng và  Quảng Đông – Cantonese.    Ngữ vững La mã hóa tiếng Tráng   đã được sáng tạo ra và là một trong 4 hệ thống viết  đã được in  ở các tờ  giấy  đồng bạc Tàu . Nguồn gốc Dong không rỏ rệt , nhưng Dong lại thường được xem là  một nhánh của  Tráng , vì họ rất giống nhau . Dong sinh sống  ỏ các núi cao  phía Bắc gần  biên giới  tỉnh Quế Châu .  Tuy nhiên dân Miêu - MiaoDao – Mán , từ lâu như đã nói,  kháng cự lại sự đồng hóa văn hóa Tàu .   Ngôn ngữ Miêu - Mán  khác biệt nhau  và liên hệ  chỉ xa xăm với Hán .  Không  một ngôn ngữ Hmong – Miên ( Miao – Yao) nào   viết được  cả , mãi cho đến khi ngữ vững   thích nghi với cách viết la tinh  được du nhập vào thập niên 1950.

 

      Phân Chia Hành Chánh 

 

     Quảng Tây chia ra làm 14 Phủ - Huyện ( đối chiếu  ngang hàng  tỉnh ở Viêt Nam ) -  dijishì :
     Số      Tên            Huyện lỵ      Tên hán ngữ Pinyin      Dân số           diện tích ( km2 )
      1       Baise          Youjiang             Baise Shi              3 466 800         36 203. 85
       2      Hechi        Jinchengjiang      HéchiShì              3 369 200          33 487 . 65
       3      Liuzhou        Liubei                Liuzhou Shì           3 758 700         18 616. 54
       4      Guilin             Lingui               Guilin Shì               4 748 000         27 622 .89
        5     Hezhou          Babu                 Hèzhou Shì            1 994 100        11 771 . 54
        6      Chongzuo      Jiangzhou        Chongzuou Shì      1994 300         17 345 . 47
        7       Nanning        Qingxiu            Nánning Shì            6 661 600        22 111. 98
        8       Laibin             Xingbin             Láibìn Shì                2 099 700       13 391 .59
        9       Guigang         Gangbei            Guigang Shùi           4 118800       10 605. 44
        10     Wuzhou         Changzhou      Wuzhou Shì              2 882 200       12 554 .94
        11  Fangchenggang   Gangkou       Fangchenggang       866 900          6 181. 19
        12      Qinzhou           Qinnan          Qìnzhou Shì              3 079 700        10 820 . 95
        13      Beihai             HaiCheng         Beihai Shì                  1 539 300         4 016 . 07
        14      Yulin                Yuzhou            Yùlin Shì                     5 487 400        12 828. 11
        14 phủ  huyện này lại chia  ra  làm   37 quận? - shi xiaqu ( Trì hạ khu ? ) , 8 thị trấn   cấp  huyện - xianjishi (  huyện cát trì ? ) và  53  huyện- xian  và 12 huyện tự trị ( zizhi xian ).
    
 

         Đôi chút địa lý

 

        Địa hình


 

         Quảng  Tây là một cao nguyên  thấp dần từ  Bắc và Tây Bắc  xuống Nam và Tây Nam.  Độ cao từ 900 đến 1800m ( 3000 đến 6000 bộ Anh )  trên mặt biển, đạt ở mép bìa  Cao Nguyên  Vân Nam  - Quý Châu ( Yunguei )    ở Tây Bắc ,  các rặng núi   Liễu? Văn-jiuman và Phong Hòang- Fenghuang ở Phía Bắc    các núi Việt Thanh –YueCheng ở Đông Bắc . Đa số  vùng này  gồm các  đồi  núi cao  từ  450 đến 900m (  1500 – 3000 bộ )  . Phía Tây là các núi Đô Dương-  Duyang   cao đến 2000m ( 6500 bộ ) . Ở Đông Nam, các đất thấp ở độ cao chừng 90 – 450m ( 300- 1500 bộ ).   Đá vôi chủ trì  nhiều phần Quảng Tây   làm thành những cảnh quan ngọan mục   Karst  , trong đó các đỉnh núi nhọn – pinnacles  tháp hình chóp xoắn ốc- spires , và các hang động lớn nhỏ  , các hố  đất sụp – sinkholes và các dòng nước ngầm đầy rẫy .  Các đồi núi  đá ngọan mục , những tháp xoắn ốc  hình thù  quái đản và các hang động  hình dáng  lạ lùng   có các thạch nhủ  đủ lọai  ,được tìm thấy nhiều nơi trong vùng , đặc biệt gần Quế, Quý Lâm – Guilin . Nhưng cảnh quan này   song song với những lọai tương tự  tìm ra ở  Quý Châu láng giềng  và ở Vân Nam  đã  đuợc UNESCO xếp chung   thành một vị trí  Di sản  Thế giới – World Heritage  năm 2007 . Núi cao nha6’t Quảngb Tâyb là   Kitten Mountain ở rặng Việt Thanh  cao 2141m ( 7 024 bộ ) .

 

    Đất đai và thủy văn 

 

      Các sông  Tân – JinNam Liễu – Nanliu   chảy về Vịnh Bắc Bộ .  Dòng chánh sông  Hương – Xiang  chảy về hướng  Đông Bắc vào tỉnh Hồ Nam. Vô số sông còn lại của Quảng Tây  gồm Hồng Thủy-Hongshui,  Lưu- Liu ,  Cương ? -Qian ,  Hửu-You , Tả-  Zuo ,  Xuân ? XunQúy- Gui   theo hướng nghiêng lệch  Đông Nam  đúng theo  đặc điểm địa hình  phần lớn Quảng Tây .  Chúng  khởi sự từ một lọat nguồn  và chảy vào  nhau  theo một   kế tiếp đồng quy, mãi cho đến khi chúng nhập  vào một sông chánh là sông Tây -  Xi.    Hệ thống sông  mạnh mẽ này   bắt nguồn từ Vân Nam  chảy rộng ngang qua  tòan vùng Quảng Tây     trước khi  đổ vào  biển Nam Hải  ( Biển Đông )  gần Quảng Châu – Guangzhou ( Canton )  tỉnh Quảng Đông .   Vùng đồi núi gồm đất đỏ , trong khi  các đất thấp  lại là phù sa  do các sông đưa tới.

      

 Khí hậu 

 

       Tòan vùng , khí hậu ấm áp đủ  để bảo đảm  trồng trọt suốt năm . Mùa hè kéo dài từ tháng tư đến tháng 10 ,  rất là nóng nực  điên đầu và ẩm độ cao . Mùa đông dễ chịu và ít khi tuyết rơi .  Nhiệt độ tháng 7   là từ 27 đến 32 độ C (  80- 90 độ F  ).  Nhiệt độ trung bình tháng giêng là từ 4 đến 16 độ C (  40- 60 độ F ).   Vì ảnh hưởng  của gió mùa đem mưa tới,  thổi từ phía Nam  đến  Tây Nam  vào cuối tháng tư  cho đến cuối tháng 9, nên mưa rất nhiều . Vùng Tây Bắc khô hạn  và vùng ẩm ướt là phía Nam và phía Đông .    Lượng mưa trung bình   là từ 1080 mm ( 43 ngón Anh ) đến   1730mm(  68 ngón ) ở  vùng khô hạn và  vùng ẩm ướt  nhận tối đa là  2760 mmm ( 109 ngón ).  Đa số mưa rơi xuống  xảy ra vào tháng 5 và tháng 8 .  Ở cực Nam, mưa to do bảo tố gây nên thường   xảy ra  giữa tháng 7 và tháng 9 .

 

                Đời sống động vật và thực vật

 

            Rừng bao phủ gần ¼ Quảng Tây.   Các rừng linh sam – fir , thông đỏ , thông tuyết, bá hương –cedar, long nảo – camphor , gỗ hồng sắc – rosewood  tìm thấy ở phía Bắc và phía Tây vùng ,   cam- quýt mọc nhiều  ở phía Nam , trong khi quế muồng – cassia, cây anít – anise  và cây cọ   trầu – betel palm   phồn thịnh ở nhiều nơi .  Hai lòai  họ thông  Cathaya mọc nhiều ở các rừng  phía Đông  Bắc .  Các rừng gỗ  là dự trữ qúi gía     để khai thác gỗ . Phía Trung  và Nam Quảng Tây,   nay nhiều đồi núi trọc   đã bị cỏ hòa bản -grasses  cao lớn  chiếm cứ , được dùng làm nhiên liệu   hay đồng cỏ  nuôi trâu con . Các động vật   hoang dã nổi bật là bò rừng –bison, heo(lợn ) rừng – boars,  gấu ,  vượn –gibbons ,  nhím – hedgehogs, và  vẹt mào – cockatoos.
 

  Tài nguyên  khóang chất và  làm thủy điện

 

          Vùng tự trị có vài trầm tích than đá và sắt  hổ trợ một phát triễn công nghệ khiêm tốn .   Than đá được khai thác  phía Bắc Guilin và  phía Nam Liuzhou và quanh Bise ở phía Tây . Sắt được đào mỏ  ở gần biên giới  Quảng Đông – Hồ Nam,   cũng như ở  Đông Nam Quảng Tây.  Tài nguyên khai thác khóang chất khác là  thiếc   ( Quảng Tây  sản xuất thiếc chánh ở Trung Quốc ) , tungsten , măng gan  và antimony .  Một số ít bismuth , kẻm,  hafnium và chì  cũng được khai  thác .
        Tiềm năng thủy điện Quảng Tây  rất to lớn . Trạm thủy điện  lớn Longtan trên sông Hồng Thủy  phía Đông Bắc Quảng Tây   khánh thành năm 2008 .  Điện cũng được phát ra từ các nhà máy nhiệt điện .  Khí sinh học – biogas  ( nhiên liệu phát sinh từ phế thải con người  động vật )  lan tràn khắp nơi,  dùng cho tiêu thụ gia thất .

Đọc tiếp Phần 2
 
https://www.facebook.com/groups/124948084959931
 
PHỤ TRÁCH BIÊN TẬP
 
Sáng lập & Cố vấn:

TRẦN ĐĂNG HỒNG, PhD

Ban Biên tập :

VÕ THANH NGHI
vothanhnghiag@yahoo.com.vn
NGUYỄN THANH LIÊM
liem68dvb@gmail.com


Địa chỉ liên lạc: thnlscantho.3@gmail.com


Đặc San:
Đặc san XUÂN CANH DẦN (2010)
Đặc san XUÂN TÂN MÃO (2011)
Đặc san XUÂN NHÂM THÌN (2012)
Đặc san XUÂN QUÝ TỴ (2013)
Đặc san XUÂN GIÁP NGỌ (2014)
Đặc san XUÂN ẤT MÙI (2015)
Đặc san XUÂN BÍNH THÂN (2016)
Đặc san XUÂN ĐINH DẬU (2017)

Đặc san "Lưu Bút Ngày Xanh I (2010)
Đặc san Lưu Bút Ngày Xanh II (2011)
Đặc san Lưu Bút Ngày Xanh III
https://www.facebook.com/groups/124948084959931/
 
https://www.facebook.com/groups/124948084959931/
 
Today, there have been 193413 visitors (350767 hits) on this page!